Khi chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về tác động của mình đối với môi trường, tầm quan trọng của việc chuyển đổi từ các nguồn năng lượng thông thường sang các nguồn năng lượng tái tạo ngày càng trở nên rõ ràng hơn đối với người tiêu dùng. Do đó, năng lượng xanh là một giải pháp để đạt được tính bền vững cao hơn trong lưới điện của chúng ta.
Khi chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về tác động của mình đối với môi trường, tầm quan trọng của việc chuyển đổi từ các nguồn năng lượng thông thường sang các nguồn năng lượng tái tạo ngày càng trở nên rõ ràng hơn đối với người tiêu dùng. Do đó, năng lượng xanh là một giải pháp để đạt được tính bền vững cao hơn trong lưới điện của chúng ta.
Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), bốn tháng đầu năm 2022, sản lượng điện của nước ta đạt 85.65 tỷ kWh. Trong đó, các nguồn năng lượng tái tại như điện mặt trời, điện gió và năng lượng sinh khối đạt đến 13.15 tỷ kWh, chiếm 15.4% trong tổng sản lượng điện toàn hệ thống.
Sản lượng của các nguồn năng lượng khác:
Lợi ích từ năng lượng lượng tái tạo
Các nguồn năng lượng tái tạo có sẵn, tự do khai thác và sử dụng mà không tốn chi phí nhiên liệu. Chúng được đánh giá là biện pháp tối ưu giúp cải thiện môi trường sống cũng như đem lại những hiệu quả kinh tế, xã hội. Lợi ích của việc sử dụng năng lượng sạch sẽ được giới thiệu ngay sau đây.
Khi sống trong một môi trường trong lành và mát mẻ, sức khỏe của chúng ta được nâng cao và giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh.
Đồng thời, việc sử dụng năng lượng tái tạo giúp thúc đẩy xã hội hình thành nên lối sống văn minh hơn và đề cao sự phát triển bền vững, tạo tiềm năng về kinh tế lẫn an ninh năng lượng của mỗi quốc gia.
Năng lượng sạch từ thiên nhiên mang tính chất vô tận, phong phú và có thể tái tạo. Trong khi nhiên liệu hóa thạch chỉ sử dụng trong khoảng 50 đến 70 năm nữa mà thôi.
Do đó, khi chuyển đổi sang các dạng năng lượng xanh có thể giúp doanh nghiệp ổn định và tiết kiệm được nhiều chi phí nhiên liệu.
Đồng thời, doanh nghiệp hoàn toàn đảm bảo tuân thủ các quy định bảo vệ môi trường nhờ tận dụng tối đa được nguồn nhiệt lượng sinh ra khi sử dụng năng lượng từ các lò hơi đốt biomass, trong khi than đá chỉ đạt 66%.
Một trong những lợi ích của việc sử dụng nguồn năng lượng sạch, đặc biệt đến từ biomass đó là xanh và cực kỳ thân thiện với môi trường. Điều đó là nhờ biomass có thể hạn chế được lượng phát thải gây ô nhiễm môi trường so sánh với khi sử dụng than đá. Do đó cải thiện tình hình nóng lên toàn cầu đang diễn ra phức tạp.
Công nghiệp năng lượng xanh có tiềm năng tạo ra nhiều việc làm mới và thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Việc đầu tư vào các dự án năng lượng xanh thường tạo ra các công việc mới trong các lĩnh vực như sản xuất, lắp đặt, vận hành và bảo trì các hệ thống năng lượng xanh.
Ngành công nghiệp năng lượng xanh thường được phát triển ở các khu vực nông thôn, giúp thúc đẩy kinh tế và tạo ra việc làm cho người dân địa phương.
Mặc dù chi phí ban đầu để xây dựng các hệ thống năng lượng xanh có thể cao hơn so với các nguồn năng lượng truyền thống, nhưng chi phí vận hành và bảo trì thường thấp hơn. Ví dụ năng lượng mặt trời và gió, không tốn phí nhiên liệu và có tuổi thọ khá dài, giúp giảm chi phí năng lượng dài hạn.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia cùng các tổ chức quốc tế, nước ta có thể đáp ứng đủ nguồn năng lượng sạch cần thiết để phát triển lưới điện quốc gia bền vững.
Theo kế hoạch Quy hoạch và Phát triển Điện lực Quốc gia (2021 – 2030), Việt Nam đặt ra mục tiêu tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo đến 40% vào năm 2045. Hiện tại, trên khắp cả nước có hơn 1000 địa điểm có tiềm năng phát triển thủy điện với tổng khả năng cung cấp năng lượng trên 7000 MW.
Bên cạnh đó, với một khí hậu nhiệt đới gió mùa trải dài khắp 3350 km đường bờ biển, Việt Nam có thể xây dựng một ngành công nghiệp năng lượng gió lớn nhất tại Đông Nam Á, đạt đến 513,360 MW, tức gấp 10 lần năng lực cấp điện của ngành điện 2020. Ngoài hai lợi thế trên, Việt Nam còn có một tiềm năng khác về nguồn nhiên liệu sinh khối (biomass).
Vốn là một nhà nước nông nghiệp, chúng ta có thể cung cấp một số lượng lớn các nguyên liệu tạo nên biomass như gỗ, củi đốt, bã mía, vỏ hạt điều, rơm rạ, trấu, mùn cưa, cùi bắp, bã cà phê,…Con số ước tính lên tới 60 triệu tấn biomass mỗi năm.
Chưa kể, khu vực miền Trung và Nam bộ của nước ta là nơi đón một lượng lớn nhiệt năng từ mặt trời, ước tính đạt đến 44 tỷ TOE.
Bộ Công Thương khẳng định rằng: “Quy hoạch điện VIII nhằm mục tiêu đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của cả nước với mức tăng GDP bình quân là khoảng 6,6%/năm trong giai đoạn 2021-2030 và khoảng 5,7%/năm trong giai đoạn 2031-2045.”
Nắm bắt được lợi thế này, Việt Nam đã xây dựng gần 90 dự án điện mặt trời có công suất lên đến 5000 MW. Một số dự án tiêu biểu như: Nhà máy năng lượng mặt trời tại xã Phước Minh, Thuận Nam, Ninh Thuận (330 MW); Phong Điền, Huế (90 MW); Tata Power tại Hà Tĩnh (300 MW);…
Sử dụng năng lượng xanh giúp giảm sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch như than, dầu mỏ và khí đốt tự nhiên. Có thể giúp giảm rủi ro về giá cả và ổn định nguồn cung cấp năng lượng.
Mặc dù vài thập kỷ qua đã chứng kiến sự tăng trưởng theo cấp số nhân trong việc sử dụng năng lượng xanh, nhưng vẫn cần phải xem xét một số hạn chế đối với nguồn năng lượng này.
Một số nguồn năng lượng xanh phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và khí quyển để hoạt động. Các đập thủy điện cần có đủ lượng mưa để lấp đầy đập và có nguồn nước chảy liên tục. Tua bin gió yêu cầu gió thổi ở tốc độ gió tối thiểu để di chuyển các cánh quạt. Các tấm pin mặt trời cần bầu trời ngập ánh nắng để tạo ra điện. Ngoài ra, các tấm pin mặt trời không thể tạo ra điện vào ban đêm.
Vẫn cần phải làm nhiều việc hơn để làm cho năng lượng tái tạo hiệu quả hơn trong việc khai thác năng lượng và chuyển đổi thành điện năng. Do đó, các dự án lắp đặt và bảo trì một số nguồn năng lượng xanh đôi khi có thể khá tốn kém.
So với các nguồn năng lượng khác, các nguồn năng lượng tái tạo chiếm không gian để sản xuất năng lượng. Năng lượng mặt trời có thể sử dụng hơn 100 mẫu pin mặt trời để sản xuất khoảng 20 megawatt điện. Để so sánh, một cơ sở hạt nhân rộng 650 mẫu có thể sản xuất khoảng 1.000 MW điện, trong khi một nhà máy năng lượng mặt trời có cùng quy mô sẽ chỉ có 200 MW. Một tuabin gió hai megawatt cần diện tích 1,5 mẫu.
Để lưu trữ năng lượng xanh, cần phải sử dụng các hệ thống lưu trữ như pin quang điện, hệ thống lưu trữ năng lượng thủy điện hoặc các công nghệ lưu trữ tiên tiến. Các hệ thống này thường cần đầu tư về công nghệ và cơ sở hạ tầng, có thể tốn kém về chi phí và không gian.
Trong quá trình lưu trữ năng lượng xanh, có thể xảy ra mất điện năng do sự mất mát nhiệt, khí hậu hay các quá trình chuyển đổi năng lượng. Việc này có thể làm giảm hiệu suất tổng thể của hệ thống lưu trữ.
Hiện tại, công suất phát điện từ năng lượng xanh chưa đủ lớn để đáp ứng nhu cầu năng lượng của chúng ta. Khi các công nghệ năng lượng tái tạo được cải thiện và mức tiêu thụ năng lượng giảm do các thiết bị, thiết bị điện tử và chiếu sáng hiệu quả hơn, có thể đến lúc cần xây dựng các nhà máy năng lượng tái tạo mới và bổ sung để đáp ứng nhu cầu năng lượng. Chúng ta vẫn chưa đạt được mục tiêu đó và vẫn sẽ sử dụng nhiên liệu hóa thạch và năng lượng hạt nhân để cung cấp một phần năng lượng đáng kể cho đến lúc đó.